SỐNG TRONG TỪNG HƠI THỞ (P.6)

Đăng bởi Thích Thiện Định vào lúc 25/09/2019
SỐNG TRONG TỪNG HƠI THỞ (P.6)

...TIẾP THEO

SÁU NỘI NGOẠI XỨ

Tiếp theo là phương pháp quán niệm về sự ràng buộc của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sáu giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu đối tượng của giác quan là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và tư tưởng.

Những ràng buộc của sáu nội ngoại xứ:

– Sự ràng buộc của mắt và hình sắc

– Sự ràng buộc của tai và âm thanh

– Sự ràng buộc của mũi và mùi hương

– Sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm

– Sự ràng buộc của thân và xúc chạm

– Sự ràng buộc của ý và tư tưởng

Khi mắt nhìn thấy hình sắc là do bởi có mắt và có hình sắc, có sự tiếp xúc của mắt với hình sắc, gây tạo cho tâm thức sự thấy biết và sự nhận thức phân biệt về hình sắc. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do mắt tiếp xúc với hình sắc. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của mắt và hình sắc sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của mắt và hình sắc.

Khi tai nghe thấy một âm thanh là do bởi có tai và có âm thanh, có sự tiếp xúc của tai với âm thanh, gây tạo cho tâm thức sự nghe biết và sự nhận thức phân biệt về âm thanh. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do tai tiếp xúc với âm thanh. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của tai và âm thanh sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của tai và âm thanh.

Khi mũi ngửi thấy một mùi hương là do bởi có mũi và có mùi hương, có sự tiếp xúc của mũi với mùi hương, gây tạo cho tâm thức sự ngửi biết và sự nhận thức phân biệt về mùi hương. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do mũi tiếp xúc với mùi hương. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của mũi và mùi hương sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của mũi và mùi hương.

Khi lưỡi nếm biết một vị nếm là do bởi có lưỡi và có vị nếm, có sự tiếp xúc của lưỡi với vị nếm, gây tạo cho tâm thức sự nếm biết và sự nhận thức phân biệt về vị nếm. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do lưỡi tiếp xúc với vị nếm. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của lưỡi và vị nếm.

Khi thân chạm biết vật thể là do bởi có thân và có vật thể, có sự tiếp xúc của thân với vật thể, gây tạo cho tâm thức sự chạm biết và sự nhận thức phân biệt về vật thể. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do thân tiếp xúc với vật thể. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của thân và vật thể sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của thân và vật thể.

Khi tâm ý khởi biết một niệm tưởng là do bởi có tâm ý và có tư tưởng, có sự tiếp xúc của tâm ý với tư tưởng, gây tạo cho tâm thức sự khởi biết về ý nghĩ và sự nhận thức phân biệt về các ý niệm. Đấy là sự ràng buộc tạo nên do tâm ý tiếp xúc với tư tưởng. Khi ý thức về sự ràng buộc, hãy ghi nhận sự thấy biết phân biệt của tâm thức. Với hơi thở tỉnh giác, các ý niệm sinh khởi bởi sự ràng buộc của tâm ý và tư tưởng sẽ dần bị giảm suy. Thở vào, ta biết ta đang thở vào. Thở ra, ta biết ta đang thở ra. Ta ý thức sự sinh khởi, tăng trưởng, giảm suy và hoại diệt của nó, để trực nghiệm bản chất vô thường ở những ràng buộc của tâm ý và tư tưởng.

Thí dụ về sự ràng buộc của mắt và hình sắc: Khi mắt nhìn thấy một cô gái trẻ đẹp, với thân hình duyên dáng và nụ cười hồn nhiên, gây tạo cho ta sự mê thích của dục tính. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nhìn thấy một hình sắc”, “Đang có sự mê thích về hình sắc”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự mê thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự mê thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của tai và âm thanh: Khi tai nghe thấy một âm thanh chửi bới, gây tạo cho ta cảm thức khó chịu. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nghe thấy một âm thanh”, “Đang có sự khó chịu về âm thanh”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết cảm thức khó chịu đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết cảm thức khó chịu đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của mũi và mùi hương: Khi mũi ngửi thấy một mùi hôi, gây tạo cho ta sự bực bội. Ta khách quan ghi nhận: “Đang ngửi thấy một mùi hôi”, “Đang có sự bực bội về mùi hôi”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự bực bội đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự bực bội đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của lưỡi và vị nếm: Khi lưỡi nếm biết một mùi vị thơm ngon, gây tạo cho ta sự ưa thích. Ta khách quan ghi nhận: “Đang nếm biết một mùi vị”, “Đang có sự ưa thích về mùi vị”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự ưa thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự ưa thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của thân và sự xúc chạm: Khi thân chạm đến một làn da mịn mát, gây tạo cho ta sự mê thích. Ta khách quan ghi nhận: “Đang chạm biết một vật thể”, “Đang có sự mê thích về xúc chạm”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự mê thích đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự mê thích đang suy giảm.

Thí dụ về sự ràng buộc của tâm trí và tư tưởng: Khi nhận biết có một ý tưởng xấu ác đang sinh khởi trong tâm thức, gây tạo cho ta sự căm ghét bất mãn. Ta khách quan ghi nhận: “Đang có một ý tưởng xấu ác”, “Đang có sự bất mãn về ý tưởng xấu ác”, rồi nhẹ nhàng trở về với hơi thở. Thở vào, ta nhận biết sự bất mãn đang sinh khởi. Thở ra, ta nhận biết sự bất mãn đang suy giảm.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã thuyết giảng về yếu nghĩa của việc sanh tâm không trụ nơi sáu trần:

“Bất ưng trụ sắc sanh tâm,

Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,

Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”

Chẳng nên trụ vào hình sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ vào âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm, tư tưởng mà sanh tâm, nên trụ vào chỗ không chỗ trụ để mà sanh tâm.

Theo tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, “chẳng nên trụ” (bất ưng trụ) mà Đức Phật đề cập trong Kinh Kim Cang có nghĩa là tâm khởi niệm không chấp chặt vào sáu trần, không vướng kẹt nơi cái thấy ở màu sắc, nơi cái nghe ở âm thanh, nơi cái ngửi ở mùi hương, nơi cái nếm ở mùi vị, nơi cái cảm biết từ sự xúc chạm của xác thân, nơi ý thức phân biệt của nghĩ tưởng. Trụ tâm như thế gọi là trụ tâm vào chỗ không chỗ trụ (ưng vô sở trụ), có nghĩa là không chấp chặt vào trần cảnh mà sanh tâm thanh tịnh. Con đường thánh đạo mà người thiền giả nương dựa vào, để an trú tâm trong ý thức chánh niệm, để tu tập sống tỉnh thức, đó là con đường của tứ niệm xứ, tức là bốn lãnh vực quán niệm.

Khi quán niệm về sự ràng buộc của các giác quan và các đối tượng của giác quan, hãy khách quan ghi nhận sự gây tạo ảnh hưởng của nó đến thân tâm. Ta ý thức sự ràng buộc ngay khi nó bắt đầu phát sinh, tăng trưởng, suy yếu, cho đến khi nó hoàn toàn hoại diệt. Ta an trú trong sự quán niệm về quá trình sinh khởi cũng như quá trình hoại diệt của nó, để thấy rõ bản chất vô thường của sự ràng buộc nơi các giác quan. Ta an trú trong sự quán niệm: “Có sáu giác quan đây”, “Có sáu đối tượng của giác quan đây”, và tất cả chỉ là sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Với sự quán niệm như vậy đủ để giúp ta ý thức sự có mặt của các đối tượng tâm thức, để quán chiếu về sự vô thường của các đối tượng tâm thức.

THẤT GIÁC CHI

Bước tiếp theo là quán niệm về bảy yếu tố của sự giác ngộ (còn gọi là thất giác chi, hay thất bồ đề phần). Bảy yếu tố của sự giác ngộ bao gồm chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, định và xả.

– Chánh niệm

Yếu tố giác ngộ đầu tiên là chánh niệm. Chánh niệm là ý thức sáng suốt và giác tỉnh về những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.

Những khi tâm thức có chánh niệm, ý thức rằng mình đang có chánh niệm. Trong pháp hành thiền tứ niệm xứ, sự quán niệm phải được dựa trên tinh thần vô ngã, không có sự liên hệ buộc ràng với cái nhìn về đề mục “ta” “của ta”. Đó là vấn đề căn bản của sự ghi nhận sáng suốt và quán sát khách quan, rất quan trọng cho sự hành trì tu tập đúng phương thức. Đây cũng là điều căn bản trong việc thực tập vô ngã – “Học đạo của Phật là học về chính mình, học về chính mình là quên đi chính mình” (Three Pillars of Zen – Philip Kapleau).

Khi tâm thức không có chánh niệm, ta cũng nhận biết về điều đó. Duy trì hơi thở trong ý thức, nhận biết tâm thức mình không có chánh niệm. Khi có ý thức sáng suốt để nhận biết về việc mình không có chánh niệm, thì ngay phút giây đó chánh niệm đã đang được bắt đầu thiết lập trong tâm thức. Hãy tỉnh biết với ý thức chánh niệm ngay đó, để nhận biết tâm mình đang có chánh niệm. Đấy chính là giây phút tỉnh thức để quán chiếu về yếu tố chánh niệm đang phát sinh. Hãy khách quan ghi nhận và chú tâm quán sát từ khi chánh niệm chưa phát sinh, nay đang bắt đầu phát sinh. Nếu đã phát sinh, nay đang bắt đầu thành tựu.

– Trạch pháp

Yếu tố giác ngộ thứ hai là trạch pháp. Trạch pháp là sự quyết trạch về các pháp, có nghĩa là sự nghiên cứu tìm học về Phật pháp. Như khi đọc Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, ta cố gắng tìm hiểu ý nghĩa huyền diệu của từng câu từng chữ trong bản kinh, bằng cách thọ trì đọc tụng để cố gắng thể nhập mọi nghĩa lý. Tất cả như vậy đều được xem là trạch pháp.

Khi yếu tố quyết trạch chưa phát sinh, nay đang phát sinh, ta ý thức rõ ràng về điều đó. Khách quan ghi nhận trong tâm thức ta đang có sự quyết trạch về các pháp. Ngay khi không có sự quyết trạch về các pháp, ta cũng liền nhận biết tỉnh giác về điều đó.

Với ánh sáng chánh niệm, ta ý thức tâm mình còn thiếu sót yếu tố trạch pháp, ta suy xét để phát triển sự thiếu sót đó, đưa đến sự phát sinh yếu tố trạch pháp trong ta. Và khi trạch pháp đã phát sinh, sẽ đi đến thành tựu. Do bởi trạch pháp thành tựu, ta thấu hiểu được ý nghĩa của lời kinh tâm yếu và phương thức tu trì, để áp dụng vào đời sống sinh hoạt hàng ngày.

– Tinh tấn

Yếu tố giác ngộ thứ ba là tinh tấn. Như đã đề cập ở phần mở đầu, yếu tố tinh tấn rất quan trọng trong quá trình tu tập bốn lãnh vực quán niệm. Thực tập quán niệm mà thiếu sự tinh chuyên hành trì thì khó có thể thành đạt được ý nguyện. Hãy nỗ lực tu tập. Hãy kiên nhẫn hành trì. Thực tập sống tỉnh thức trong từng mỗi phút giây. Sống trong hành động hiện tại.

Khi thực tập bốn pháp quán niệm nghiêm túc và cần mẫn, ta ý thức tâm mình đang có sự tinh tấn hành trì. Khi có yếu tố tinh tấn, ta ý thức mình có tinh tấn. Khi không có tinh tấn, ta ý thức mình không có tinh tấn. Ta ý thức sự tinh tấn ngay khi nó bắt đầu phát sinh. Khi đã phát sinh, ta ý thức sự thành tựu của nó. Ta an trú trong sự quán niệm: “Có sự tinh tấn đây”, như vậy đủ để giúp ta ý thức sự có mặt của yếu tố tinh tấn trong tâm thức.

– Hoan hỷ

Yếu tố giác ngộ thứ tư là hoan hỷ. Do bởi chánh niệm phát khởi và thành tựu, tâm trí ta sáng suốt ghi nhận sự việc, cố công nghiên cứu tìm học về Phật pháp. Những yếu chỉ lời kinh được giải bày dưới ánh sáng trí tuệ, bản thân nỗ lực tinh chuyên hành trì, thực tập sống trong từng sát na. Ta tỉnh biết và ghi nhận sáng suốt về mọi sự việc đang diễn biến trong giờ phút hiện tại. Ta ý thức sống trong từng mỗi hơi thở, trong từng nhịp đập của con tim, trong mọi tư thế và cử động của thân thể, trong mọi chuyển biến vận hành của tâm tư. Ta thực tập sống tỉnh thức trong từng mỗi phút giây thực tại.

Ánh đuốc chánh niệm sáng soi đưa đến sự chứng nghiệm về bản chất vô ngã của mọi sự thể, lý nghĩa vô thường và khổ của cuộc đời người. Tâm thức sáng tỏ trong hân hoan vui mừng, đưa đến sự phát sinh của yếu tố hoan hỷ.

Khi yếu tố hoan hỷ bắt đầu phát sinh, ta ý thức sự phát sinh của nó. Và khi hoan hỷ đã phát sinh, ta ý thức sự thành tựu của nó. Ta an trú trong sự quán niệm: “Có sự hoan hỷ đây”, như vậy đủ để giúp ta quán chiếu và ý thức sự có mặt của yếu tố hoan hỷ trong tâm thức.

– Khinh an

Yếu tố giác ngộ thứ năm là khinh an, tức là cảm giác thảnh thơi nhẹ nhàng trong tâm thức. Trước hết là yếu tố chánh niệm thành tựu, đưa đến sự tăng trưởng yếu tố trạch pháp và sự tinh tấn phát sinh và thành tựu. Tiếp đó, sự hoan hỷ bắt đầu phát khởi và đi đến thành tựu, thân tâm cảm nhận những thư thái nhẹ nhàng và bình an. Mọi sự vận hành của thân tâm trong vững chải, tâm trí thảnh thơi và thư thái, đưa đến yếu tố khinh an phát sinh.

Khi sự khinh an bắt đầu phát sinh, hãy tỉnh giác và nhận biết về điều đó. Ta ý thức tâm mình đang có sự khinh an. Khi yếu tố khinh an thành tựu, ta ý thức rõ ràng về sự thành tựu của nó. Khi yếu tố khinh an đã thành tựu, thân tâm cảm nhận sự nhẹ nhàng, ung dung và vững chải. Hơi thở ý thức trong từng mỗi phút giây tĩnh lặng.

– Định

Yếu tố giác ngộ thứ sáu là định. Từ sự thành tựu của các yếu tố giác ngộ căn bản (chánh niệm, trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ) đã đưa đến sự thành tựu của yếu tố khinh an. Khi sự khinh an thành tựu, đưa đến sự phát sinh của yếu tố định. Ngay giờ đây, hơi thở vào ra trong ý thức. Tâm thể vắng lặng tịch tĩnh. Vọng tưởng đọng lắng. Tâm thức bình an như mặt hồ thu sớm. Chánh niệm sáng tỏ trong từng mỗi hơi thở, trong từng mỗi sát na của cuộc sống. Đây là giai đoạn yếu tố định đang bắt đầu thành tựu.

Trong phần quán tâm, yếu tố định đã được đề cập chi tiết. Ở đây, chỉ xin nhấn mạnh, yếu tố định được xem như hoa trái tự nhiên của sự giác tỉnh. Khi tâm thức có định, ta ý thức rõ ràng tâm thức đang có định. Khi tâm thức không có định, ta ý thức rõ ràng tâm thức không có định.

Ta ý thức sự định tâm từ khi nó chưa phát sinh, nay đang phát sinh. Khi phát sinh, ta ý thức sự phát sinh của nó. Và khi thành tựu, ta ý thức rõ ràng sự thành tựu của nó.

– Xả

Yếu tố giác ngộ thứ bảy là xả, tức là sự buông bỏ. Khi định lực phát triển, lúc đó tâm trí đi vào sự tịch tĩnh vắng lặng không một móng niệm. Khi ấy, tâm thức hoàn toàn thật sự buông xả tất cả. Thân và tâm không còn bị trói buộc vào bất cứ gì trong cuộc đời. Ta sống tự tại ung dung với đất trời, như mây đi, như gió về – “Nhập triền thùy thủ” (Thỏng tay vào chợ – Thập Mục Ngưu Đồ). Ta sống trong cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm não loạn sầu tư. Những sự việc biến động chung quanh cũng không làm chao động não tâm (Bất dĩ ngoại vật động kỳ tâm).

Người thiền giả sống ung dung và thản nhiên như mây đi, như gió về, thanh thản như ngọn cỏ, an bình như lá hoa, điềm nhiên như hạt nắng chiều tà, tự tại như giọt sương rơi sớm. Không bị hoàn cảnh trói buộc. Không bị vọng tưởng gây não phiền. Không náo động trong hiện tại. Không bấn loạn phân tâm với sự đời.

Do bởi sống an nhiên và tỉnh thức, ta trực nghiệm sự nhiệm mầu của tạo hóa, ý nghĩa và sự hiện hữu của đời người. Sự sống chết cũng chẳng luống hề bận tâm. “Túng ngộ phong đao thường thản thản, giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn” – Nếu gặp gươm đao vẫn cứ đùa giỡn, ví nhằm thuốc độc vẫn cứ an nhàn (Chứng Đạo Ca). Ta sống trọn vẹn với chính ta, hoan hỷ an vui trong hiện tại. Sống và thật sự sống trong từng sát na nhiệm mầu của cuộc sống.

Sống vẫn cứ sống, sống để mà sống, sống thật sự với cuộc sống nhưng không chấp chặt vào đó – “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, vô vi nhi vô bất vi” của Lão Tử nào có khác chi (Hòa chung ánh sáng, đồng cùng bụi bặm, không làm nhưng không có gì không làm). Một cái phất tay rũ sạch tất cả mọi não phiền. Thong dong tự tại. An nhiên tịch tĩnh. “Không dứt trừ vọng tưởng cũng không cầu chân giác” (Chứng Đạo Ca). Sống hoàn toàn với cái tâm “không không”. Đó là yếu chỉ “Vô tướng vô không vô bất không” trong Chứng Đạo Ca của Đại sư Huyền Giác (Không hình tướng, không phải không, cũng không phải chẳng không).

Khi biết tâm thức có buông xả hay không có buông xả, ta đều nhận biết đúng như vậy. Ta ý thức ngay khi sự buông xả phát sinh, sự tăng trưởng của nó, sự thành tựu của nó. Yếu tố hành xả đưa đến sự thảnh thơi và giải thoát hoàn toàn cho tâm thức. Nó là điểm linh quang của trí tuệ. Đại sư Huyền Giác đã chỉ rõ tinh túy của sự hành thiền là yếu tố buông xả – “Thị dĩ thiền môn liễu khước tâm” – Cho nên thiền học dạy buông hết (Chứng Đạo Ca). Điều đó có nghĩa là tiến lên một bước nữa trên sự buông xả để xả cái xả, buông bỏ cái buông bỏ vậy.

CÒN TIẾP...

Tags :

LỜI PHẬT DẠY
VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN:
popup

Số lượng:

Tổng tiền: